Site icon MUC News

Trí huệ bậc đế vương nhà Trần trong nghệ thuật trị quốc

Hào khí Đông A-Bạch Đằng 1288, Sơn mài của Nguyễn Trường Linh (Ảnh: Soha)

Hào khí Đông A không chỉ đến từ chiến địa; mà từ trí huệ của bậc đế vương – biết lấy dân làm gốc; lấy nghĩa giữ lòng người, lấy pháp dựng kỷ cương.

Hội nghị Diên Hồng – trí huệ khơi dậy sức mạnh toàn dân

Sử chép:
“Thượng hoàng triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão đều nói ‘đánh’, muôn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng.”

Đây là một sự kiện đặc biệt. Các vua Trần và bầy tôi vốn đã có kế sách chống giặc; song vẫn triệu tập phụ lão để hỏi kế. Sử thần Ngô Sĩ Liên lý giải:
“Là vì Thánh Tông muốn làm thế để xét lòng thành ủng hộ của dân chúng; để dân chúng nghe theo lời dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên thôi. Đó là giữ được cái nghĩa người xưa nuôi người già để xin lời hay vậy.”

Hội nghị Diên Hồng năm 1284 (Ảnh: dinhnghia)

Câu chuyện Diên Hồng cho thấy trí huệ chính trị của bậc quân vương. Không chỉ dựa vào mưu lược; Trần Thánh Tông đã khéo léo khơi dậy niềm tin và ý chí chiến đấu trong nhân dân. Lòng dân đồng thuận, sức mạnh toàn dân mới có thể trở thành thành trì vững chắc chống ngoại xâm.

Nhân nghĩa đi cùng nghiêm minh

Trong cuộc kháng chiến, khi Hưng Đạo Vương đánh bại quân Nguyên ở Vạn Kiếp, nhiều tướng giặc tử trận. Sử chép:
“Vua trông thấy thủ cấp của Toa Đô, thương hại nói: ‘Người làm tôi phải nên như thế này’. Rồi cởi áo ngự, sai quân đem liệm chôn; nhưng ngầm sai lấy đầu Toa Đô đem tẩm dầu để răn. Vì cớ Toa Đô mượn đường vào cướp nước ta đã ba năm vậy.”

Hành động này cho thấy sự cân bằng tinh tế trong trí huệ của vua Trần. Một mặt, ông thương cảm người bại tướng vì đã hết lòng trung nghĩa với chủ. Mặt khác, ông vẫn giữ kỷ cương quân pháp, coi đó là lời răn để bảo vệ quốc gia. Đây không chỉ là nhân nghĩa, mà còn là nghệ thuật trị quốc; vừa khích lệ lòng trung, vừa bảo toàn sự nghiêm minh.

Trí huệ đế vương qua lời sử thần

Ngô Sĩ Liên đã bình luận về hành động của vua Trần:
“Than ôi! Câu nói ấy của vua thực là câu nói của bậc đế vương! Nói rõ đại nghĩa để người bề tôi muôn đời biết rằng; trung với vua, chết vì phận sự là vinh, tuy chết mà bất hủ, mối quan hệ lớn lắm vậy. Huống chi lại cởi áo ngự, sai người liệm chôn nữa. Làm vậy có thể khích lệ sĩ khí để trừ giặc mạnh là phải lắm.”

Toa Đô bị chém đầu ở Tây Kết (Ảnh: znews)

Lời bình này không chỉ tôn vinh một câu nói, mà còn khẳng định chuẩn mực của đạo trị quốc; bậc quân vương biết đề cao chữ “trung”, từ đó khích lệ lòng trung thành của bề tôi; củng cố niềm tin và sức mạnh của cả triều đại. Đó cũng chính là biểu hiện của trí huệ của bậc đế vương.

Dân – Nghĩa – Pháp: Thế đứng vững bền của Đại Việt

Nhìn vào hội nghị Diên Hồng và cách vua Trần đối xử với Toa Đô; có thể thấy trí huệ của quân vương nhà Trần không nằm ở mưu mẹo chính trị; cũng không chỉ ở thắng bại ngoài chiến trường. Điều làm nên sức mạnh bền vững chính là nghệ thuật dung hòa; biết lấy dân làm gốc để biến ý chí cộng đồng thành sức mạnh quốc gia; biết dùng nhân nghĩa để khích lệ lòng trung, nhưng cũng đủ nghiêm minh để giữ vững kỷ cương.

Trong nền tảng ấy, “dân – nghĩa – pháp” không tách rời, mà quyện chặt thành thế đứng của Đại Việt. Nhờ vậy, một dân tộc nhỏ bé vẫn có thể ba lần quật ngã vó ngựa Nguyên – Mông hùng mạnh. Và cũng nhờ vậy, triều Trần đã để lại cho hậu thế một di sản; muốn trị quốc an dân, trước hết phải quy tụ được lòng người; muốn khích lệ sĩ khí, phải lấy đạo lý làm nền.

Ngày nay, khi nhìn lại, những bài học từ Diên Hồng; hay câu nói của vua Trần trước thủ cấp Toa Đô vẫn còn nguyên giá trị. Một quốc gia vững mạnh không chỉ cần chiến lược phát triển; mà trên hết là một tinh thần lãnh đạo; biết gắn kết con người bằng niềm tin, nhân nghĩa và trách nhiệm. Đó chính là di sản để hậu thế suy ngẫm và tiếp bước.