Giữa nhịp sống hiện đại ồn ào, khi các giá trị văn hóa truyền thống dường như lùi bước trước cơn sóng thời đại, ca trù – một loại hình nghệ thuật thanh tao, tinh tế, gắn liền với tâm hồn người Việt – vẫn lặng lẽ vang lên như tiếng vọng thiêng liêng từ quá khứ. Việc khôi phục và phát triển ca trù không chỉ là trách nhiệm của những người nghệ sĩ mà còn là lời nhắc nhở mỗi người chúng ta về cội nguồn văn hóa dân tộc.

Ca trù – Kho báu nghệ thuật truyền thống

Theo các nhà nghiên cứu, ca trù đã xuất hiện từ thế kỷ 11–12, từng là bộ môn nghệ thuật cao cấp phục vụ chốn cung đình, đền phủ, nhưng cũng phổ biến trong sinh hoạt dân gian như hát cửa đình, hát thờ hay hát thi. Ca trù kết hợp giữa giọng hát của đào nương, tiếng đàn đáy trầm lắng và phách tre nhịp nhàng, tạo nên không gian âm nhạc vừa huyền bí vừa sâu lắng.

Thế kỷ XX, ca trù từng bị lãng quên, chỉ còn lại trong ký ức của những nghệ nhân già nua như bà Quách Thị Hồ, bà Nguyễn Thị Chúc. Năm 2009, UNESCO công nhận ca trù là di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, nhưng vào thời điểm đó, Việt Nam chỉ còn khoảng 70 nghệ nhân biết hát và truyền dạy ca trù.

Hồi sinh từ tro tàn

Những năm gần đây, nhờ sự nỗ lực của Hội bảo tồn di sản, các câu lạc bộ ca trù và các nghệ nhân tâm huyết đã dần trở lại. Một trong những minh chứng cảm động là CLB Ca trù Thăng Long (Hà Nội), do NSND Xuân Hoạch và NSƯT Phạm Thúy Hoan sáng lập. Nhờ sự kiên trì của họ, hàng chục học trò trẻ đã nối tiếp nhau học ca trù, không chỉ học hát mà còn học cách cảm, cách thở và cách “thấm” từng nhịp phách.

Hình ảnh những em nhỏ 7–8 tuổi say mê tập phách, học hát Hồng hồng tuyết tuyết bên những nghệ nhân bạc đầu khiến người xem không khỏi xúc động. Tại Liên hoan Ca trù toàn quốc 2024, đã có hơn 30 CLB trên cả nước tham gia với hơn 200 tiết mục, cho thấy sức sống mới của loại hình nghệ thuật này.

Một con số đáng chú ý: theo báo cáo của Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, trong năm 2023, đã có hơn 15.000 lượt khán giả tham dự các chương trình ca trù tại di tích Đền Kim Ngân, Đền Dâu, Đình Hàng Bạc – gấp 3 lần so với năm 2018. Những con số này không chỉ phản ánh sự quan tâm của công chúng mà còn là dấu hiệu tích cực cho thấy ca trù đang được “hồi sinh”.

ca trù
NSND Xuân Hoạch trong chương trình “Xẩm và đời”(Ảnh: m.anninhthudo)

Những người giữ lửa – Những câu chuyện chạm đến trái tim

Không thể không nhắc đến NSND Xuân Hoạch – người nghệ sĩ dành cả đời để sưu tầm, nghiên cứu và truyền dạy ca trù. Trong buổi biểu diễn tại Đền Kim Ngân (Hà Nội), khi cất giọng ca trù Tỳ bà hành giữa không gian trầm mặc của đêm thu, ông khiến khán giả rơi lệ. Một du khách nước ngoài đã chia sẻ: “Tôi không hiểu lời bài hát, nhưng âm thanh ấy khiến tôi xúc động đến nghẹn ngào. Tôi cảm nhận được nỗi buồn, niềm tự hào và tình yêu đất nước Việt Nam”.

Cũng không thể quên bà Nguyễn Thị Chúc, nghệ nhân ưu tú từng lặn lội khắp làng quê để tìm lại đồng nghiệp cũ; khôi phục từng làn điệu thất truyền. Bà từng nói trong một buổi trò chuyện: “Ca trù không phải chỉ là âm nhạc, mà là tâm hồn, là cốt cách người Việt. Mỗi phách, mỗi tiếng đàn đáy đều mang theo tinh hoa văn hóa cha ông”.

Ca trù khó lan tỏa – Vì sao?

Dù ca trù đã và đang hồi sinh; nhưng sức lan tỏa của loại hình nghệ thuật này vẫn chưa thật sự vững bền. Căn nguyên không chỉ đến từ sự thiếu hụt nghệ nhân hay kinh phí; mà sâu xa hơn là sự “lệch nhịp” giữa ca trù và gu thưởng thức hiện đại.

Trước hết, ca trù là bộ môn có tính bác học; đòi hỏi người nghe phải có độ lắng, có vốn văn hóa để cảm. Điều này khiến ca trù khó tiếp cận với số đông vốn quen với nhịp sống nhanh; âm nhạc sôi động. Thứ hai, môi trường học và biểu diễn ca trù hiện nay chủ yếu nằm trong các câu lạc bộ mang tính truyền thống; ít được số hóa, truyền thông hóa, khiến giới trẻ ít cơ hội chạm đến. Cuối cùng, nhiều chương trình bảo tồn ca trù hiện vẫn mang tính hành chính; thiếu sức sống và chưa kết nối được giữa truyền thống và sáng tạo đương đại.

Khôi phục ca trù – Từ truyền dạy đến lan tỏa

ca trù
Nghệ nhân Nguyễn Thị Chúc và ca nương Phạm Thị Huệ trong một lần biểu diễn ca trù. (Ảnh: tienphong)

Để loại hình nghệ thuật dân gian này không chỉ sống mà còn lan tỏa; việc phục hưng cần đi từ chiều sâu văn hóa đến chiều rộng cộng đồng, cụ thể:

Tạo cầu nối từ học đường

Có thể đưa ca trù vào các tiết ngoại khóa âm nhạc tại cấp THCS và THPT. Thay vì chỉ nghe, học sinh có thể tham gia thử làm đào nương, đánh phách… để “chạm” vào ca trù bằng trải nghiệm.

Số hóa di sản

Phối hợp với các đơn vị công nghệ để số hóa các làn điệu ca trù cổ; đưa lên nền tảng YouTube; Spotify với phụ đề giải nghĩa – giúp người trẻ dễ tiếp cận, hiểu và yêu hơn. Có thể học theo cách ứng dụng “Đình làng Việt” đã làm với hát xẩm.

Kết hợp sáng tạo đương đại

Có thể thử nghiệm đưa ca trù kết hợp với nhạc cụ hiện đại; hoặc sân khấu thị giác trong những không gian trình diễn mới như bảo tàng; không gian nghệ thuật đương đại. Ca trù từng được phối hợp với jazz trong một dự án gây tiếng vang; điều này cho thấy khả năng “chuyển mình” của di sản nếu được định hướng khéo léo.

Nuôi dưỡng thế hệ kế cận

Bảo trợ học bổng cho các em học sinh; sinh viên yêu thích ca trù, hỗ trợ nghệ nhân truyền dạy bằng hình thức trợ cấp hằng tháng. Một thế hệ mới được trao truyền – là mạch sống của di sản.

Xây dựng các “trạm dừng văn hóa”

Tổ chức các đêm diễn ca trù định kỳ tại các đình làng; di tích cổ, khu du lịch tâm linh với thiết kế tinh tế; có hướng dẫn giải nghĩa – để ca trù được nghe trong bối cảnh văn hóa phù hợp.

Ca trù sẽ sống cùng thời đại; nếu ta tạo được không gian để nó ngân lên đúng mạch nguồn của mình – sâu; lặng; và đầy bản sắc.

Ca trù – Khúc hát tổ tiên còn vang

Ca trù không chỉ là một thể loại âm nhạc. Đó là hồn vía của một dân tộc biết sống chậm, biết giữ đạo, biết ngẫm ngợi. Mỗi câu hát; mỗi tiếng đàn đáy không chỉ kể câu chuyện ngàn năm của cha ông; mà còn truyền tải tâm hồn Việt Nam đến bạn bè quốc tế.

Như lời nghệ nhân Nguyễn Thị Chúc từng nói trước khi mất:

“Tôi chỉ mong những làn điệu ca trù sẽ không mất đi. Vì đó là tiếng nói của cha ông, của đất nước Việt Nam, là tiếng lòng của tôi.”