Chính quyền Trung Quốc đã biến các tàu dân sự của nước này thành công cụ giám sát, kích động xung đột nhằm thúc đẩy yêu sách hàng hải phi pháp của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Mới đây nhất, có thông tin cho biết: Trung Quốc đang cài đặt các thiết bị giám sát công nghệ cao lên hai tàu tiếp tế dân sự ở Biển Đông; để các tàu này có thể theo dõi các tàu của Mỹ, Việt Nam và các nước khác.

Trang BenarNews cho biết thông tin trên dựa trên các tài liệu mua sắm mới của chính phủ Trung Quốc.

“Đây chỉ là ví dụ mới nhất về việc chính quyền Trung Quốc sử dụng tài sản dân sự để theo đuổi lợi ích an ninh quốc gia của họ ở Biển Đông”, BenarNews viết. Tờ báo cũng lưu ý rằng đây là “một hoạt động phổ biến theo chiến lược ‘hợp nhất quân sự-dân sự’ của Trung Quốc”.

Các tàu Tam Sa 1 và Tam Sa 2 giám sát Biển Đông

Cái gọi là “thành phố Tam Sa” thuộc tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) đã giao hợp đồng lắp đặt các thiết bị giám sát cho Công ty TNHH Khoa học và Công nghệ Đại Lý Chiết Giang. Tam Sa là đơn vị hành chính mà Trung Quốc thành lập năm 2012 để quản lý phi pháp quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa); quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa); bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough (Trung Quốc gọi là quần đảo Trung Sa) .

Theo hợp đồng, công ty Đại Lý sẽ lắp đặt một cặp “Hệ thống giám sát quang điện tử đường dài DLS-16T” lên hai tàu tiếp tế chính của thành phố. Hai tàu có tên Tam Sa 1 và Tam Sa 2. Tổng giá trị của hai hệ thống giám sát là 3.830.000 nhân dân tệ (khoảng 13,5 tỷ đồng Việt Nam).

Hai tàu Tam Sa 1 và Tam Sa 2 có nhiệm vụ chủ yếu là tiếp tế cho đảo Phú Lâm, hòn đảo mà Trung Quốc chiếm đóng phi pháp của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc biến đảo Phú Lâm thành trụ sở chính của thành phố Tam Sa.

Hai chiếc tàu Tam Sa 1, Tam Sa 2 cũng có lúc đi xa hơn về phía nam; đến quần đảo Trường Sa, theo BenarNews.

Giám sát “24 giờ mỗi ngày” mọi thứ trên Biển Đông

Hồ sơ thầu cho biết Hệ thống Giám sát Quang điện tử Đường dài DLS-16T của công ty Đại Lý cho phép các tàu “thực hiện tìm kiếm, quan sát, giám sát, và thu thập bằng chứng video chống lại các mục tiêu trên biển và trên không” như tàu, người trên tàu, vật thể trôi nổi trên biển và máy bay trong mọi điều kiện thời tiết, 24 giờ một ngày.

Hệ thống giám sát được lắp đặt trên hai tàu có thể phát hiện, xác định và theo dõi “những con tàu nhạy cảm” từ các chính phủ như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Philippines, Việt Nam, Indonesia và Đài Loan; cũng như ghi lại và hiển thị thông tin này theo thời gian thực tế.

Tài liệu đấu thầu cho thấy thành phố Tam Sa đang muốn có một hệ thống theo dõi tích hợp hình ảnh ánh sáng nhìn thấy được; hình ảnh nhiệt hồng ngoại; theo dõi mục tiêu tự động; radar; có khả năng nhìn thấu qua sương mù; tăng cường hình ảnh; hệ thống định vị vệ tinh do Mỹ điều hành, hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đẩu của Trung Quốc; và các tính năng khác.

Trung Quốc từ lâu đã sử dụng các tàu dân sự để giám sát Biển Đông

Trung Quốc từ lâu đã sử dụng các tàu dân sự như Tam Sa 1 và Tam Sa 2 để thúc đẩy khả năng kiểm soát Biển Đông.

Ông Devin Thorne, một nhà phân tích có trụ sở tại Washington, cho biết “các hạm đội dân sự của Trung Quốc đóng góp vào an ninh quốc gia như một phần của chiến lược kết hợp quân sự-dân sự”.

Ông Thorne nói cách đóng góp của các hạm đội này chỉ đơn giản là “‘hoạt động tích cực trong các khu vực tranh chấp”. Thông qua đó, “chúng giúp (Bắc Kinh) đòi hỏi các quyền hàng hải của Trung Quốc; chúng tạo điều kiện cho (Trung Quốc) thể hiện sức mạnh quân sự; và mở rộng tai mắt của Bắc Kinh ra khắp các vùng biển lân cận”.

Ví dụ, các tài liệu cho thấy chính quyền Trung Quốc đã lắp đặt hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đẩu trên hàng nghìn tàu đánh cá để cho phép họ giám sát hàng hải ở Biển Đông. Hệ thống này thậm chí còn có tính năng gửi tin nhắn.

Ngoài việc tận dụng các ngư dân bình thường, Trung Quốc còn triển khai các lực lượng dân quân biển chuyên nghiệp để giám sát các khu vực tranh chấp.

Ông Thorne nói: “Các tàu đánh cá của Lực lượng Dân quân Hàng hải thuộc Lực lượng Vũ trang Nhân dân là phù hợp nhất để thực hiện các nhiệm vụ do thám; do họ được đào tạo về thu thập thông tin tình báo và khả năng ẩn nấp trong thời gian dài tại các vùng biển tranh chấp”.

“Nhưng ít nhất kể từ năm 2014, một số lực lượng dân quân hàng hải cũng bắt đầu sử dụng các tàu công nghiệp hạng nặng. Vai trò của họ là cung cấp hỗ trợ hậu cần và thực hiện các nhiệm vụ do thám trong các hoạt động quân sự”, ông Thorne giải thích.

Không chỉ giám sát, các tàu dân sự Trung Quốc còn có nhiệm vụ kích động xung đột

Ông Thorne nói thêm rằng “các hạm đội dân sự của Trung Quốc cũng được sử dụng để gây áp lực trong các tranh chấp lãnh thổ; và trong một số trường hợp, là kích động xung đột.”

Ví dụ, gần đây là vụ hơn 200 tàu Trung Quốc tập trung quanh Đá Ba Đầu thuộc quần đảo Trường Sa, dẫn đến phản đối ngoại giao từ Việt Nam và Philippines.

“Các đội tàu đánh cá thường xuyên đi đầu trong hoạt động này. Tuy nhiên, trong Vụ hạ giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014, chúng ta đã từng chứng kiến tàu buôn quốc doanh Trung Quốc rượt đuổi, đâm và phun vòi rồng vào các tàu Việt Nam”, ông Thorne nói.

“Tôi không biết về có trường hợp nào khác mà Trung Quốc từng sử dụng tàu buôn như thế này; nhưng lực lượng dân quân hàng hải và các bộ phận khác của lực lượng vũ trang Trung Quốc đã tiếp tục tạo mối liên kết với các hạm đội công nghiệp”, ông Thorne nói.

Vì vậy, theo ông Thorne tình huống như rượt đuổi tàu như trên có thể xảy ra lần nữa.