Hà Tĩnh – Từ món kẹo dân dã làm từ lạc, mật mía và vỏ chanh của ông Đinh Vy ở Hương Sơn, qua cách gọi chệch của người Pháp, “kẹo cu đơ” ra đời và trở thành đặc sản nức tiếng cả nước.

Ký ức về món kẹo tuổi thơ

Giữa những ngày thu tháng 9, nhóm năm cụ ông, cụ bà trên 70 tuổi về thăm quê, ghé ngôi nhà cũ của ông Đinh Vy ở thôn Tiến Thịnh (nay là xã An Hòa Thịnh, huyện Hương Sơn). Trong câu chuyện rôm rả, họ nhắc lại ký ức tuổi thơ: trốn bố mẹ để đi ăn kẹo cu đơ, thứ quà quê ngọt bùi khó quên.

Theo lời ông Nguyễn Văn Hùng (65 tuổi, cháu họ ông Vy), vào khoảng năm 1953, ngoài nghề buôn trầu cau, ông Đinh Vy – thường gọi là Cu Hai hay Đinh Hai – nghĩ ra cách nấu lạc cùng mật mía và vỏ chanh. Kẹo được đổ ra bát sứ, để nguội rồi xúc ăn, nhanh chóng khiến trẻ con trong vùng mê mẩn.

Cu đơ Hà Tĩnh
Ông Nguyễn Văn Hùng, cháu bên ngoại ông Cu Hai, kể về nghề làm kẹo cu đơ của gia đình. (Ảnh: Đức Hùng)

Vì sao gọi là “kẹo cu đơ”?

Tên gọi độc đáo của kẹo gắn liền với những giai thoại thú vị.

Một thời, binh lính Pháp đóng quân gần xã Sơn Thịnh; thường ghé nhà ông Hai mua kẹo. Nghe người dân gọi ông chủ là “Hai”, họ dịch sang tiếng Pháp là “Deux” (số 2). Từ đó, kẹo ông Hai nấu được gọi chệch thành “cu đơ”.

Một cách giải thích khác lưu truyền trong dân gian: Những thiếu sinh quân mê kẹo của ông Hai thường rủ nhau “đi nhà cu đơ”, như một mật khẩu; để tránh bị phát hiện. Dần dà, cái tên này trở nên quen thuộc.

Nghề nấu kẹo truyền qua nhiều thế hệ

Sau khi ông Đinh Vy qua đời (1965), nghề làm kẹo tiếp tục được họ hàng và người dân trong vùng kế tục. Gia đình ông Nguyễn Văn Hùng, là một trong số đó. Những năm 1960–1970, kẹo cu đơ bắt đầu vượt ra ngoài phạm vi Hương Sơn; lan sang các huyện khác; rồi phổ biến khắp tỉnh Hà Tĩnh.

Nguyên liệu kẹo đều sẵn có tại địa phương: Lạc từ các bãi bồi ven sông Ngàn Phố, mật mía nấu từ cây mía ép lấy nước. Kỹ thuật nấu đòi hỏi tỉ mỉ: Lạc phải giữ nguyên vỏ lụa, cho vào nồi mật đang sôi; quấy đều đến khi giòn; thì thêm gừng và vỏ chanh chín. Một mẻ kẹo, thường mất gần một giờ; yêu cầu sự khéo léo để tạo được vị dẻo của mật, bùi của lạc; thơm của gừng và chanh.

Từ bát sứ đến bánh đa vừng

Ngày đầu, kẹo cu đơ được đổ trong bát sứ, ăn bằng thìa. Về sau, người dân cải tiến bằng cách đổ kẹo lên lá chuối, giấy, rồi chặt thành miếng nhỏ. Khi ăn, có thể dùng nước nóng bôi để bóc giấy lót.

Một bước ngoặt là việc đổ kẹo trên bánh đa vừng. Sự kết hợp này giúp kẹo vừa giòn vừa thơm, trở thành cách làm phổ biến ở Hà Tĩnh cho đến nay.

Giá trị văn hóa – ẩm thực đặc sản Hà Tĩnh

Từ món quà quê vài đồng một bát, đến thập niên 1990, kẹo cu đơ bán theo khuôn giá 2.000 đồng. Hiện nay, một tấm kẹo tròn đổ trên bánh đa có giá 10.000–16.000 đồng.

Kẹo cu đơ thường được thưởng thức cùng cốc nước chè xanh, là món quà gắn liền với con người Hà Tĩnh. Du khách đến Hà Tĩnh đều tìm mua vài gói mang về làm quà.

Cu đơ Hà Tĩnh
Kẹo cu đơ, nước chè xanh thường được người dân Hà Tĩnh dùng để mời khách. (Ảnh: Đức Hùng)

Năm 2021, Hội Kỷ lục gia Việt Nam vinh danh kẹo cu đơ Hà Tĩnh trong Top 100 món ăn và quà tặng đặc sản Việt Nam – khẳng định vị thế của món kẹo mang hồn quê Hà Tĩnh.

Theo: VnExpress